Kiến là loài côn trùng xã hội thuộc họ Formicidae có họ hàng với loài ong, thuộc bộ Hymenoptera. Trên thế giới có khoảng 12.000 loài kiến, đa số các loài kiến phân bổ ở vùng nhiệt đới. Chúng được biết là loài côn trùng có tính tổ chức cao trong tập đoàn kiến, có những tổ kiến có đến hàng triệu cá thể.
Các tổ kiến thường chiếm 1 khu vực rộng lớn, tổ kiến giống như một siêu tổ chức vì chúng được vận hành như một hệ thống nhất. Kiến có thể thấy hầu hết mọi nơi trên Trái Đất, những nới không có sự tồn tại của các loài bản địa là Nam Cực, Greenland, Iceland, một số khu vực của Polynesia, quần đảo Hawaii, và một số đảo hẻo lánh hay các đảo không thuận lợi cho sự sống.
Tìm hiểu về loài kiến |
Tiến hóa:
Vế sinh hoc giống loài chỉ ra rằng kiến tiến hóa từ Vespoids ở giữa kỹ phấn trắng khoảng 120-170 triệu năm trước đây sau khi các cây hạt kín xuất hiện cách đây khoảng 100 triệu năm, kiến đã phân chia thành nhiều loài và thống trị thế giới sinh vật khoảng 60 triệu năm trước đây. Nhiều hóa thạch từ kỹ phấn trắng là lớp trung gian và ong, đã cung cấp thêm bằng chứng về nguồn gôc của loài ong.
Hình thái học:
Kiến được phân biệt với các côn trùng khác bởi đôi râu gấp khúc và cơ thể chia thành 2 phần rõ rệt nối với nhau bởi phần eo rất hẹp. Phần eo được tảo bởi 1 hay 2 đốt, cơ thể kiến giống như các loài côn trùng khác bao gồm một bộ xương ngoài bao bộc toàn bộ cơ thể và một bộ phần kết nối các cơ, khác với cấu tạo bộ xương bên trong của người và những động vật có xương sống khác. Côn trùng không có phổi, oxy và khí CO2 được trao đổi thông qua các lỗ tí hon ở bộ xương ngoài, còn gọi là lỗ thở.
Cơ thể kiến được chia làm 3 phần : Đầu, ngực và bụng
- Phần đầu có nhiều cơ quan cảm giác, giống như hầu hết các lòai côn trùng, kiến có đôi mắt kép, gồm nhiều thấu kính nhỏ kết hợp lại với nhau giúp chúng phát hiện sự chuyển động rất tốt. Kiến cũng có 3 mắt đơn ở đỉnh đầu giúp chúng cảm nhận cường độ của ánh sáng. Râu của kiến là cơ quan đặc biệt giúp chúng giao tiếp, phát hiện hóa chất, mùi được tiết ra từ các cá thể kiến khác. Râu cũng là cơ quan cảm nhận giúp chúng nhận biết được sự vật xung quanh. Đầu còn có đôi hàm khỏe, hàm dưới dùng để mang thức ăn, xây tổ và bảo vệ tổ kiến.
- Phần ngực có 3 đôi chân, ở cuối mỗi chân có hình dạng như các móc giúp kiến có thể leo trèo dễ dàng. Kiến chúa và kiến đực còn có cánh.
- Phần bụng là nơi có nhiều cơ quan quan trọng, bao gồm cơ quan sinh sản. Hầu hết các loài kiến có ngòi dùng để chích hóa chất làm tê liệt con mồi hay để bảo vệ tổ.
Sự phát triển:
Vòng đời của kiến bắt đầu từ trứng, trứng được thụ tinh sẽ nở thành kiến cái, nếu không sẽ thành kiến đực. Vòng đời của kiến thuộc dạng biến thái hoàn toàn: trứng- ấu trùng- nhộng- con trưởng thành. Giai đoạn ấu trùng phụ thuộc hoàn toàn vào sự giúp đỡ của các cá thể trong tổ, vì chúng không có chân. Sự khác biệt giữa kiến chúa và kiến thợ (đều là kiến cái) và các đẳng cấp kiến thợ khác nhau phụ thuộc vào sự nuôi nấng, chăm sóc giai đoạn ấu trùng. Thức ăn được cung cấp cho ấu trùng qua quá trình trao đổi trao đổi thức ăn, kiến thợ sẽ ợ thức ăn để nuôi ấu trùng. Đây cũng là cách trao đổi thức ăn giữa các con trưởng thành trong tổ kiến. Ấu trùng và nhộng cần được giữ trong nhiệt độ ổn định để đảm bảo cho sự phát triển của chúng. Do đó chúng thường hoán đổi vị trí giữa các khoang trong tổ kiến.
Một con kiến thự trưởng thành thường sử dụng một vài ngày đầu để chăm sóc kiến chúa và con non. Sau đó chúng sẽ chuyển sang làm công việc đào hang hay những công việc khác trong tổ kiến, tiếp đó là đi kiếm ăn và bảo vệ tổ kiến. Sự thay đổi chức năng đôi khi diễn ra một cạc đột ngột và được định nghĩa là đằng cắp kiến thời vụ. Giả thuyết cho sự thay đổi này diễn ra là do tỉ lệ kiến bị chết trong khi đi kiếm ăn tăng cao. Ở một số loài kiến, đẳng cấp kiến được phân theo kích cớ. Kiến thợ được phát triển theo những kích cỡ khác nhau: cỡ nhỏ, cỡ vừa, cỡ lớn. Những con kiến lớn phát triển không đồng đều với cái đầu lớn hơn, mang đôi hàm lớn. Cá thể này đôi khi gọi là kiến lính, vì đôi càng to khỏe khiến cho chúng bảo vệ tổ hiệu quả hơn mặc dù chũng vẫn là kiến thợ và nhiệm vụ của chúng cũng không có khác biệt lớn với các kiến thợ cỡ nhỏ hay vừa.
Hầu hết ở các loài kiến thường gặp được tổ chức theo cách kiến Chúa và kiến sinh sản mới có khả năng giao phối. Trái nược với sự hiểu biết của vài người, một tổ kiến có nhiều kiến Chúa. Kiến đực cùng với những con cái có khả năng sinh sản có cánh chúng không làm bất cứ công việc gì ngòai ăn và giao phối. Đến thời điểm thích hợp, các con đực cùng với kiến cái không phải kiến Chúa (có khả năng sinh sản) bay ra khỏ tổ. Việc giao phối được thực hiện trong khi bay và con đực chết sau đó không lâu. Những con cái khi đáp xuống đất sẽ tìm một nơi thích hợp để thiết lập một tổ kiến mới. Lứa kiến thợ đầu tiên thường yếu và có kích thước nhỏ hơn các lứa sau và chúng bắt đầu ngay công việc mở rộng tổ, tìm kiếm thức ăn và chăm sóc trứng ...Ở một số lòai kiến có nhiều kiến Chúa, tổ kiến mới có thể được hình thành bằng cách 1 con kiến Chúa tách khỏi tổ cũ cùng với một số lớn kiến thợ để tìm vị trí mới thành lập tổ. Tập đoàn kiến có thể tồn tại trong thời gian dài, kiến Chúa có thể sống trên 30 năm, trong khi kiến thợ sống từ 1-3 năm, con đực chỉ sống 1 vài tuần.